Vị trí và địa h́nh cứ điểm Charlie trên bản đồ quân sự
Quả t́nh nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, th́ cũng chẳng ai
biết đến Charlie, v́ đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ
nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.
Charlie, "Cải Cách," hay "C," đỉnh núi cao không quá 900 thước trông
xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với
mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc
vùng Tây Nguyên.
Từ xa xưa cho đến khi ngọn đồi này bị tràn-ngập. Nó vốn không hề có
tên. Charlie chỉ là một check point trên bản đồ quân-sự cho các cuộc
hành-quân hoặc một chiến-dịch. Và cái tên Charlie cũng chỉ là nhất
thời, nó cũng như những check point khác như Delta, Yankee, Metro .
. . chỉ được sử-dụng trong một giai-đoạn có thể là rất ngắn cho đến
khi hết cuộc hành-quân hoặc chiến-dịch mà thôi. Qua đến chiến-dịch
hoặc cuộc hành-quân khác, những check point cũ sẽ không c̣n được
sử-dụng nữa. Chúng có thể sẽ được sử-dụng bởi những tên mới khác.
Charlie cái tên được đặt đầu mùa 1972 cho một ngọn đồi để tiếp nhận
định mệnh tàn khốc trong cuộc chiến trùng trùng.
Người ở lại Charlie, Cố Đại tá Nguyễn Đ́nh Bảo
(phải),
Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù (với Đ/U Dù Đoàn
Phương Hải. trái)
Tháng 4 năm 1972 Sư đoàn 320 Bắc Việt bao vây cứ điểm Charlie. Những
cơn mưa pháo kinh khiếp, tàn nhẫn đạt tới “ điểm đứt hơi, điểm vỡ
của chiến trận”(chữ dùng của PNN) phủ chụp xuống đồi Charlie, nối
tiếp những đợt cường tập biển người của Cộng quân. Ngày 12 tháng 4
hỏa tiễn 122 mm pháo trúng hầm chỉ huy, Trung tá Nguyễn Đ́nh Bảo
(Tiểu Đoàn Trưởng ) tử trận. Một trong những con sói đầu đàn của
binh chủng Nhảy Dù sau mười hai năm ngang dọc chiến trận đă chấm hết
phút đó trên cao độ 1020 trông về bốn hướng chập chùng đồi cao tiếp
núi thẩm. Trường Sơn ác độc nhận thêm một h́nh hài !
Thiếu tá Lê Văn Mễ lên thay thế và tiếp tục cuộc “thánh chiến” tử
thủ Charlie.
Thiếu tá Lê Văn Mễ (dang rộng tay) cùng đồng
đội của Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù trên đồi Charlie trước cơn băo lủa Hè
1972
Sau 7 ngày giao chiến không được tiếp tế, hết thực phẩm nước uống,
cạn đạn dược. Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù được lệnh bỏ cứ điểm. Trong màn
đêm họ rút về hướng Đông Bắc. Một số binh sĩ bị thương quá nặng đă
t́nh nguyện ở lại cầm chân địch quân để đồng đội an toàn rời tử địa.
Tiểu đoàn rút khỏi đỉnh đồi gần nửa cây số những cơn địa chấn dội
xuống từ pháo đài bay B-52 san bằng Charlie, Cứ Điểm Thép của 11
Nhảy Dù cháy hừng hực trong cơn băo lửa, trong vụn vỡ nát tan của
núi rừng hoang dă Tây Nguyên, chẳng c̣n ǵ nguyên vẹn ngoại trừ hồn
phách của những người lính Nhảy Dù can trường của Tiểu Đoàn Song
Kiếm Trấn Ải !
Charlie, Ngọn Đồi Quyết Tử
Nửa ngày ở Dakto
Sớm mai bắn súng lên trời
Chào cô gái Thượng mang đời trên lưng
Buổi trưa xuống, phố tưng bừng
Chào nhau, Mũ Đỏ không mừng không lo.
Vào Charlie
Trăm con chim lạ về rừng
Cờ treo hai ngọn, lẫy lừng chiến khu
Kontum gió núi, sương mù
Theo quân vào cuộc, sinh, từ, quê hương
Ba lô, súng trận, sa trường
Tiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn
Điệu sầu nửa phím tơ loan
Áo phong sương đă mấy lần tả tơi
Xung phong vũ khúc lên đồi
Bom rơi, pháo nổ, thây người ngả nghiêng
Tóc tai phủ mặt đêm đen
Đầy trời khói lửa Tam Biên, bảo bùng
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Charlie gẩy cánh thiên thần. Tiếc Thương
Cánh dù lộng gió muôn phương
Vào ḷng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi
Tay khô đốt sáng đỉnh trời
Lập loè đốm lửa, thắp đời quạnh hiu.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
Để kính nhớ cố Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11 Dù, và
đồng đội tôi. Để tưởng nhớ đề lô Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù,
Trung úy Nguyễn Văn Khánh, Chuẩn Úy Sơn, ' và 10 đệ tử trong đó có
hai đệ tử chúng tôi là Hạ sĩ Hạnh, Binh nh́ Nhỏ c̣n ở lại Charlie…
Để tưởng nhớ anh em Không Quân đă hy sinh để bảo vệ chúng tôi suốt
trận đánh lịch sử này…
CHARLIE bây giờ
Ngày hôm nay, khi chúng tôi lại một lần nữa đến viếng ngọn đồi đă
lừng-danh này. Cũng là ngôi mộ mang tên Charlie chôn kín niên-trưởng
Cố Đại-tá Nguyễn-Đ́nh-Bảo, Tiểu-đoàn Trưởng Tiểu-đoàn 11 – Song Kiếm
Trấn Ải con sói đầu đàn của Sư-đoàn Nhảy Dù. Cùng bao chiến-sĩ Dù
thuộc cấp của Ông.Từ một người phụ-nữ lam-lũ với đồng-áng, nương,
rẫy. Đến những người hành-nghề Honda ôm tại Pleiku, Kontum nói
chung, ở Sa-châu nói riêng v.v… tất thảy họ đều biết ngọn đồi
Charlie. Họ sẽ chỉ-dẫn rất tận-t́nh và rơ-ràng những chi-tiết cho
những ai muốn đến nơi đó.
Một ngày nào đó, khi non-sông gấm-vóc của chúng ta được tươi-sáng
lại, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước mắt của người lính VNCH
trên "địa linh" CHARLIE sẽ được hồi sinh cho thế hệ con cháu đời sau
chiêm ngưỡng.
Nếu không có sự hy-sinh của Tiểu-đoàn Song Kiếm Trấn Ải Hè Đỏ Lửa
1972. Hẳn trong dân-chúng miền Tây-nguyên đă không bao giờ biết đến
nó, nhớ đến nó. Cố Đại-tá Nguyễn-Đ́nh-Bảo và các chiến-hữu của Ông
đă định danh cho nó rồi : Đồi CHARLIE.
Nếu trên Ql 14, tại Dakto chúng ta sẽ phải rẽ trái (hướng Tây). Rồi
mất thêm 49 cây số nữa mới tới được Charlie tại thị-trấn Sa-châu.
Nhưng khởi-hành từ Kontum chúng ta đi, th́ tới ngă ba Trung-chính
chúng ta rẽ trái (hướng Tây) và chỉ mất hơn 20 cây số là đến Charlie
(Sa-châu) mà thôi. Như vậy, nếu ta lấy 3 điểm Kontum, Dakto và
Charlie, th́ chúng sẽ tạo ra một h́nh tam-giác mà Charlie là đỉnh có
cạnh đáy là Kontum và Dakto.
Đồi Charlie và khu dân-cư Sa-châu, được nh́n từ Sa-b́nh cách Sa-châu
9 cây số.
Lối vào dễ-dàng nhất và gần nhất để đến Charlie.
Charlie, Ngọn Đồi Quyết Tử
Để kính nhớ cố Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11 Dù, cùng
đồng đội Nhảy Dù và Không Quân đă hy sinh trong trận Charlie…
Đại Tá Nguyễn Đ́nh Bảo
Tất cả ám danh đàm thoại truyền tin của Pháo binh Nhảy Dù đều bằng 4
con số, thí dụ như pháo kích gọi là 3113, bắn hiệu quả gọi là 3134,
và tên các giới chức gọi bằng 3 con số, thí dụ như tên chúng tôi gọi
là 314, mọi tần số truyền tin đều chuyển qua hệ thống của đề lô cho
dể tác xạ, và bài này sử dụng bạch văn cho độc giả dể hiểu.
( Tiếng động cơ trưc thăng hoặc tiếng phi cơ vận tải dồn dập rồi đáp
xuống). Những ngày gần cuối tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 2 Pháo binh
theo Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù đi hấp tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở
Phước Tuy, giửa chương tŕnh huấn luyện có một cuộc hành quân nhảy
dù và có phi pháo yễm trợ bằng đạn thật. Cũng như những lần tập
trước đây, bải đáp là một cánh đồng trống với nhiều bụi tre lúp xúp,
khi toàn bộ Tiểu đoàn 7 và một Pháo đội Dù với 6 cây đại bác 105 ly
kiểu M102 được trang bị vũ khí đầy đủ nhảy từ phi cơ 123 an toàn đáp
xuống đất, là mở đầu ngay cuộc tấn công mục tiêu bằng đạn thật vào
một khu rừng sát chân núi ( tiếng đạn nổ trên mục tiêu). Cũng vào
thời gian này Pháo binh Nhảy Dù vừa mới được trang bị loại đạn cay
CS 105 ly nên Tiểu đoàn của chúng tôi được lệnh phải bắn thử loại
đạn này, tôi cùng một Tiền Sát Viên h́nh như là Trung úy Đỗ Trọng
Dụng được lệnh đeo mặt nạ ngồi dưới hầm gọi tác xạ bắn ngay trên đầu
để thử công hiệu.
Cuộc bắn thử này có nhiều giới chức quân sự cao cấp đứng trên một khán đài ở xa để quan sát. Tôi vừa hồi hộp vừa tự trấn an, ai bảo đi pháo binh, sinh nghề tử nghiệp mà, nếu điều chỉnh xa mục tiêu th́ mất mặt KBC 4522, c̣n nếu bắn ngay trên đầu th́ chiếc mặt nạ thổ tả này có chịu nổi hàng chục trái đạn cay hay không. Tôi chưa kịp lo ra th́ Tiểu đoàn thông báo cho tôi xuống pháo đội lảnh hai đề lô đi tiền sát cho Tiểu đoàn 9 Dù. Một chiếc xe Dodge đưa ngược chúng tôi về Saigon, thầy tṛ vừa xuống xe vào tŕnh diện Ban 3 Tiểu đoàn 9 th́ lại được một công điện về tŕnh diện Tiểu đoàn 11 của Trung Tá Nguyễn Đ́nh Bảo để đi Kontum.
Những bất thường trong đời lính làm cho tôi không thấy có điều ǵ bất tường cả trong lệnh điều động này. Đầu năm 1972, chiến sự đă trở nên sôi động nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến được gọi là chiến tranh ư thức hệ này cũng chẳng được giới sĩ quan trẻ như chúng tôi để ư nhiều, chỉ quan niệm đơn giản đến tuổi là phải đi lính để bảo vệ quốc gia. Mới đổi về Nhảy Dù đúng một năm mà đă tham dự hàng chục cuộc hành quân lớn nhỏ, cái chết lúc nào cũng cận kề làm tôi chẳng c̣n ư niệm ǵ về những cuộc ra đi của bạn bè về vùng 5 da ngựa bọc thây. V́ ở đâu, Nhảy Dù có đụng là đụng thứ thiệt, chơi thật sự với đại pháo 130 ly, với xe tăng T54, và biển người cỏ rác nhất định sinh Bắc tử Nam để thực hiện cho bằng được mộng làm tôi đ̣i cho cộng sản quốc tế của Bắc Bộ Phủ, ở đâu, chúng tôi cũng phải một đánh ba là thường xuyên, c̣n nếu không Bộ Tổng Tham Mưu chẳng bao giờ chịu sử dụng cả. Nhưng ở đây, Charlie, chúng tôi phải một đánh mười, Mặt trận B3 của cộng quân với Sư đoàn Thép 320, Sư đoàn 968, chưa kể các Trung đoàn pháo và pḥng không dầy đặc đă sẳn sàng đợi Tiểu đoàn “Song Kiếm Trấn Ải ” danh hiệu 11 Dù hai cây đèn cầy.
Phi cơ bay ra Pleiku ở một đêm, rồi hôm sau theo đường bộ ra Kontum, rồi đi Tân Cảnh theo Quốc lộ 14, dọc đường nhiều quán thịt rừng mọc lên làm tôi nhớ lại Saigon, những bửa c̣n tiền th́ đấu với đại vơ sĩ Rémy Martin hoặc cạn túi th́ chơi với vơ sĩ hạng lông rượu rắn tại Quán thịt rừng Tân Vạn, gần hậu cứ Nguyễn Huệ. Xe qua Căn cứ B5 rồi Diên B́nh, những người lính Địa Phương Quân đứng trên cầu vẫy tay cười cười, cái khung cảnh b́nh yên này chỉ trong thời gian ngắn nửa thôi là có chuyện lớn xảy ra, đó là cái bất tường của đời lính. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ở Vơ Định, tôi nhận bản đồ hành quân từ Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù của Thiếu Tá Bùi Đức Lạc (hiện ở San Jose), là vị Tiểu Đoàn Trưởng tiền nhiệm của Tiểu đoàn tôi, và chuẩn bị nhảy vào Charlie. Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh Tiểu đoàn 11 Dù tức đề lô chúa là Trung úy Lưu Văn Đúng danh hiệu 310, một đàn anh chưa bao giờ chịu học nhảy dù, đă triệu tập chúng tôi lại phân chia và thông báo nhiệm vụ, Trung úy Nguyễn Văn Khánh danh hiệu 311, cũng là bạn cùng khóa với tôi là đề lô Đại đội 111 của Trung úy Thinh. Chuẩn Úy Sơn danh hiệu 312, đề lô Đại đội 112 của Đại Úy Hùng móm. Chuẩn Úy Trưng danh hiệu 313, đề lô Đại đội 113 của Đại Úy Hùng mập. Trung úy Nguyễn Văn Lập danh hiệu 314, đề lô Đại đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho (hiện nay ở Quận Cam). Đại đội 110 của Đại Úy Nho đóng chung với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11. Pháo binh từ Căn cứ 5 danh hiệu 415, Pháo binh Căn cứ 6 danh hiệu 416, Căn cứ Yankee của Pháo đội D1 ở hướng bắc danh hiệu 417, và Pháo đội C1 danh hiệu 418 với 1 trung đội 155 ly C 220 danh hiệu 419 ở hướng Nam yễm trợ trực tiếp hoặc tăng cường cho chúng tôi theo yêu cầu. Nh́n một dọc các căn cứ hỏa lực yễm trợ cho Tiểu đoàn 11, tôi nhận thấy ngay t́nh h́nh rất là nghiêm trọng, một cuộc tapi khốc liệt sẻ diễn ra trên ngọn đồi vô danh nào đó nằm sâu trong dảy Trường Sơn.
Sáng ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 11 được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân, phi cơ bay ngang Tân Cảnh nơi đúng một năm trước đây, sau Hạ Lào, một số đơn vị của Sư đoàn Nhảy Dù từ Quăng Trị bay thẳng về đây giải tỏa Căn cứ 5 và Căn cứ 6. Cuộc hành quân ngoạn mục nhảy ngay trên đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, lúc này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót, tôi từ Tiểu đoàn 183 Pháo binh dă chiến Long Khánh về tŕnh diện Thiếu Tá Lạc tại vùng hành quân và được vị Tiểu đoàn trưởng chịu chơi cho 4 ngày phép về Saigon coi như một đặc ân về Pháo Binh Nhảy Dù, đồng thời xù luôn 4 ngày trọng cấm mà Trung úy Toàn, Chỉ huy hậu cứ ( hiện ở tại San Jose) tặng cho tôi về tội dám căi lại quan anh ngay lúc tôi c̣n mặc bộ đồ xanh bộ binh về tŕnh diện Dù. Từ trên trực thăng nh́n xuống, ở xa về hướng nam, con sông Poko màu bạc uốn khúc theo dẩy Trường Sơn rồi đổ ra cắt ngang quốc lộ 14, đẹp như một nét chấm phá của thiên nhiên, và dẩy Trường Sơn ở hướng Tây trùng điệp những đồi núi ngút ngàn với hầu hết là những ngọn đồi trọc lá trơ cành, giơ những cánh tay khẳng khiu lên không như cầu nguyện cho một thiên đường vừa đổ vở. Hai chiếc Cobra bay phía trước hộ tống cho những chiếc chuồn chuồn UH1B đáp xuống căn cứ Charlie, không có màn bắn dọn bải đáp v́ đă có quân ta đáp xuống trước, những người lính dù nhảy xuống trực thăng rồi tản ra hai bên gh́m súng pḥng thủ sát giao thông hào, và tôi đă có mặt tại ngọn đồi vô danh mà sau này đă đi vào chiến sử Nhảy Dù như một địa danh bất khuất không thể nào quên của người lính quốc gia, cũng như làm cho tất cả quân dân cả Miền Nam biết đến qua bản nhạc “Người Ở Lại Charlie” của Trần Thiện Thanh.
Theo sự bố trí, Đại đội 113 nằm phía bắc dưới chân đỉnh Yankee, cách Tiểu đoàn gần 3 cây số. Đại đội 111 thủ Charlie cao độ trên 1000 mét. C̣n lại Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và các Đại đội 110, 112, và 114 đóng quân tại căn cứ C2 cùng dẩy núi thoai thoải nhưng cao hơn và cách Charlie gần nửa cây số. Nh́n trên bản đồ th́ tất cả các đơn vị của Tiểu đoàn 11 Dù đóng quân trên một trục Nam Bắc khá thẳng để dể quan sát về hướng Tây giáp với Kampuchia, nơi đường ṃn Hồ Chí Minh rẻ ra các ngả vào ba biên giới Việt Miên Lào ở phía Tây Bắc, c̣n Căn cứ biên pḥng Benhet th́ nằm sâu gần biên giới hơn. Suốt trận chiến Charlie nổi tiếng trong quân sử, Benhet vẫn b́nh yên v́ cộng quân dồn mọi nổ lực để nhổ cái gai Charlie nằm chận cuống họng xâm nhập vào Tỉnh Kontum qua ngả Dakto. Charlie là một căn cứ hỏa lực nhỏ của Mỹ bỏ đă lâu giờ trông rất hoang tàn, khi Tiểu đoàn 11 đổ quân xuống, sửa sang lại giao thông hào và giăng lại kẽm gai cho tiện việc pḥng thủ. Bao quanh Charlie là những ngọn núi cao thấp với cao độ trên một cây số. Phía Tây dưới chân Charlie có một con suối nhỏ dốc đứng rất khó lên xuống nhưng nguồn tiếp tế nước uống và tắm rửa cũng từ con suối này. Trận chiến diễn ra ác liệt tại quanh khu vực này nên gọi chung là trận Charlie.
Đại đội 114 đóng ṿng cung phía Nam chịu trách nhiệm nặng nhất v́ địa thế thoai thoải dể đánh lên , và ngoài pḥng tuyến cở 50 mét có nhiều cây cao rất dể cho cộng quân nấp vào đó mà tấn công, và trận chiến bắt đầu cũng từ hướng này trước. Chưa bao giờ tôi thấy một Đại đội trưởng cho đào một cái hầm trú ẩn h́nh chử nhật to và kiên cố đến như vậy với nắp hầm vừa thân cây vừa bao cát cao đến gần 1 mét, Trung úy Cho bảo tôi ra gần ngoài tuyến t́m chổ đào hầm, tôi nói tôi yễm trợ cho Trung úy, nếu Trung úy nằm đâu th́ tôi nằm đó. Trung úy Cho đành để tôi ở chung trong hầm, nhờ vậy sau này tôi thoát chết dưới làn pháo khủng khiếp của cộng quân. Tôi bảo hai đệ tử Hạnh và Nhỏ ra gần ngoài tuyến t́m chổ đào hầm, c̣n máy PRC 25 th́ đưa cho tôi, và thỉnh thoảng chạy vào xem tôi có cần ǵ không. Chiều xuống, như thường lệ khi đi trận, tôi gọi 417 tác xạ pḥng thủ lập một số tuyến cản theo h́nh ṿng cung ngoài ṿng vị trí khoảng 100 mét ( có tiếng pháo binh bắn điều chỉnh), xong yêu cầu gửi yếu tố tác xạ đến các căn cứ khác để bắn theo yêu cầu khi cần. Nhờ những tuyến cản này mà chúng tôi đă giử được phía Nam C2 cho đến ngày Charlie thất thủ. Đêm đầu tiên, tôi ngủ không được v́ những tiếng ŕ ŕ của xe cơ giới chạy suốt đêm, từng đoàn xe Molotova và có cả tiếng xe tank chạy trong dảy Trường Sơn, hướng Tây và Tây Nam cách căn cứ Charlie không xa, quân xa cộng quân mở đèn chạy công khai như xa lộ không người. Tôi chấm một số điểm đâu đó trong rừng t́nh nghi là đường ṃn theo hướng xe chạy để bắn quấy rối ( harrasing fire), khi pháo binh ta bắn, quân xa địch tắt đèn ngưng chạy, hết loạt đạn, chúng mở đèn chạy tiếp, đêm nào cũng thế, ngoài tầm bắn của pháo binh ta nên bọn chúng gần như công khai di chuyển. Chắn chắn chúng đang mở chiến dịch lớn lắm nên mới ồn ào điều quân như thế này, và Quân đoàn II cũng biết như thế nhưng không hiểu tại sao không cho B52 dập.
Ngày hôm sau 26/3/1972, tôi theo Thiếu Tá Lê Văn
Mễ, Tiểu đoàn phó danh hiệu Mê Linh (hiện nay ở San Jose), dẫn hai
đại đội 112 và 114 đi đánh giải vây cho một đơn vị Tiểu đoàn 2 Dù ở
hướng Nam. Mục tiêu là một đỉnh đồi cách Charlie khoảng gần 1 cây
số, cộng quân thuộc Trung đoàn 3/ 320 đă chiếm ngọn đồi này và xác
một Chuẩn Úy của ta vẫn c̣n đó. Gần đến nơi, Thiếu Tá Mễ gọi tôi bắn
dọn đường xong chuyển xạ bằng một quả khói lên ngay trên đỉnh đồi
cho phi cơ nhận diện đánh bom, rồi pháo binh làm tiếp .
-418 đây 314 xin tác xạ. Hết.
-314 đây 418 xin tác xạ. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói nổ chạm. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói. Hết.
Độ hai phút sau.
-Bắn. Trả lời.
-Bắn. Hết. (tiếng pháo nổ)
Thiếu Tá Mễ liên lạc với đứa con đi đầu, xong xin điều chỉnh tác xạ
-Hướng 800. Gần lại 100. Một khói . Hết.
-Hướng 800. Gần lại 100. Hết.
Đến quả đạn khói thứ hai th́ điều chỉnh vào đúng
mục tiêu, dứt trái khói, Mê Linh nói tiếng Anh như gió liên lạc
thẳng với phi cơ Phantom Mỹ nhào xuống thả bom, rừng núi rung chuyển
như cơn địa chấn v́ mục tiêu cách chúng tôi chỉ hơn 100 mét ( tiếng
bom nổ). Khi phi đội rời mục tiêu, tôi xin pháo đội bắn hiệu quả 10
tràng vừa đạn nổ vừa delay để phá hầm, khẩu 3 (đang điều chỉnh) bắn
trước một quả (mổi pháo đội có 6 đại bác tức là bắn 60 quả). Mê Linh
dặn tôi khi dứt loạt đạn này là xung phong. Tôi tŕnh Mê Linh để tôi
chuyển xạ ra phía sau thành một tuyến lửa không cho tụi nó chạy,
phải chấp nhận giao chiến với ḿnh. Mê Linh OK. Dứt loạt đạn hiệu
quả, pháo đội chuyển xạ thành một tuyến phía sau. Trung đội đầu tiến
dè dặt v́ địa h́nh không cho phép và đạn AK từ phía trên đỉnh đồi
bắn xuống xối xả không xung phong được. Từng khinh binh Dù tiến lên
theo thế chân vạc. Đạn AK và M16 thi nhau nă từng loạt (tiếng súng
nổ rời rạc). Dù len từng gốc cây, người này bắn che cho người khác
tiến, và cuối cùng lên được triền đồi. Toán đầu tiên báo cáo sơ khởi
dứt được hai vịt con (tức Việt cộng) tịch thu được 1AK, 1 CKC, và
t́m được xác viên Chuẩn úy Tiểu đoàn 2 Dù cùng một binh sỉ. Mê Linh
bảo ráng lên đến đỉnh xem có ǵ không. Vừa dứt lời th́ tiếng depart
đại bác từ phía Tây bắn tới cắt ngang hông Dù. Xịt oành, Xịt oành.
Tiếng đại bác này là sơn pháo 75 ly không giật có sơ tốc độ cao nên
vừa nghe tiếng depart là nổ liền. Dù bị đánh ngang hông, vừa dứt
loạt pháo là bộ binh địch tràn lên cũng từ phía Tây. Mê Linh cho
toán đi đầu lùi lại tránh pháo, kết quả ta chết một, bỏ lại một M16.
Lúc này th́ địch đă ngưng pháo chỉ dùng súng nhỏ. Mê Linh cho rút
toàn bộ về nhập lại một v́ sợ địch cắt đôi. Địch vẫn tiếp tục bắn
theo. Mê Linh bảo tôi bắn chận.
-418 đây 314. Mục tiêu. Hướng 1000. Gần lại 200. Một nổ. Bắn khi sẳn
sàng. Hết.
Lúc này Pháo đội C1 đă biết chúng tôi bị đánh ngang hông nên đă sẳn
sàng bắn chận. Oành. Một tiếng nổ lớn như tiếng sét đánh ngay trên
đầu, mănh đạn bay túa túa, tiếng cành cây bị chém gảy rớt xuống đất
nghe rào rào, xong hoàn toàn im lặng, có thể nói một tiếng thở kế
bên cũng nghe rỏ. Chiến trường hoàn toàn im tiếng súng. Tôi biết đạn
đạo chạm cành cây nên nổ trên không thay v́ rớt xuống đất mới nổ, v́
gấp rút quá nên tôi không cho bắn đầu nổ cao, mặc dù tôi đă trừ hao
yếu tố nhưng đường tên đạn đạo chạm nổ trên cành, và đă vô t́nh ngăn
chận địch không dám liều lĩnh truy nă. Tôi tŕnh với Mê Linh:
-Thiếu Tá hỏi xem con cái ḿnh có bị ǵ không, c̣n tụi vịt con tôi
đoán thế nào cũng lănh đủ trái này, ḿnh giử nguyên yếu tố này, nếu
tụi nó lên, ḿnh dứt nó liền. Lúc này th́ Cobra cũng lên vùng nhưng
chưa bắn. Tiểu đoàn trừ cũng dừng lại dàn hàng ngang đề pḥng địch
xung phong. Một lúc sau, tôi nghe nói Trung úy Lạc, Đại đội 112 là
người bạn cùng Khóa 27 Thủ Đức với tôi bị mănh đạn chém ngay đầu bị
thương nặng. Tôi ḅ lại thấy Lạc nằm gần đó mở đôi mắt lờ đờ, đầu
quấn băng, máu tuôn xối xă. Tôi nằm xuống ghé sát tai Lạc nói:
- Tao xin lổi, tao bắn đó, chỉ có ḿnh mày lănh trái này, c̣n tụi nó
không dám tấn công nửa nên chưa biết thế nào, mày mà chết tao ân hận
lắm, phải bắn chận nếu không tụi nó tràn lên.
Lạc chỉ mĩm cười héo hắt, c̣n tôi th́ hết sức buồn bả hỏi tiếp:
-Mày thấy thế nào.
-Đau, không c̣n căm giác ǵ hết. Thấy Lạc tỉnh táo như thế tôi càng
lo hơn v́ người bị thương nặng trước khi chết thường rất b́nh tỉnh
như thế. Tôi lại nói với Lạc như nói với một người sắp chết:
-Một lần nửa, tao xin lổi mày. Nói xong tôi ḅ lại phía Thiếu Tá Mễ.
Nhờ quả đạn đại bác này mà địch không dám đuổi theo. Trời đă gần
chiều nên có lệnh trở về căn cứ, Lạc cũng được trực thăng di tăn.
Trong lúc hai đệ tử lo ăn uống c̣n tôi xuống suối tắm. Tại đây tôi
gặp Trung Tá Bảo cũng vừa đi xuống tắm, thân h́nh ông cao lớn và nụ
cười rất dể thương, nhưng tôi thấy lạ một điều là ông mặc áo giáp
khi đi tắm, và chỉ có ông là duy nhất mặc áo giáp mà thôi. Điềm ǵ
đây, hay là ông đă linh căm được điều ǵ.
Sáng ngày 27/4/1972, trong lúc tôi ăn cơm th́ có một người lính chạy
vào nói Thiếu Tá Mễ gọi. Tôi xách máy chạy ra ngoài tuyến giửa Đại
đội 112 và 114 th́ thấy Thiếu Tá Mễ và Thiếu Tá Duffy, cố vấn Mỹ
đang ngồi sát gốc cây nh́n về phía trước mặt chỉ chỉ. Lính gác phát
giác địch xuất hiện phía bên kia triền đồi hướng Tây Nam căn cứ
Charlie, bọn chúng đang đi lên đồi như đi chợ. Thiếu Tá Mễ hối tôi :
- Bắn nhanh lên không tụi nó đi hết.
Địch xuất hiện khá xa cở bảy tám trăm mét đường chim bay, tôi quay
sang Thiếu Tá Duffy hỏi có đem theo ống ḍm cho tôi mượn, xa quá mắt
thường bắn không chính xác, Thiếu Tá Duffy chạy vội về hầm rồi trở
lại đưa ống ḍm cho tôi. Tôi giở bản đồ và địa bàn ra nhắm mục tiêu,
xong chấm điểm địch xuất hiện rồi mở máy gọi 417 ở Yankee xin bắn,
và gọi thêm 415 tăng cường. Quả đạn nổ đầu tiên cách mục tiêu khoảng
200 mét, điều chỉnh một lúc vào đúng mục tiêu, xong vạch một tuyến
dài cở 300 mét trên bản đồ xin 417 và 415 chia nhau bắn, vừa gọi bắn
tôi vừa nói
-Bảo đảm thế nào tụi nó cũng khiêng đó Thiếu Tá.
Thiếu Tá Mễ lại hối:
- Nếu trúng rồi bắn hiệu quả luôn.
Sau loạt đạn cuối cùng độ 10 phút, quả nhiên địch cứ hai thằng d́u
một thằng bị thương đi ngược xuống đồi, tôi đưa ống ḍm tŕnh lại
với Mê Linh:
-Trúng rồi, Thiếu Tá nh́n xem tụi nó khiêng xuống đồi ḱa. Thiếu Tá
Mễ xem xong đưa máy cho Thiếu Tá Duffy rồi lại hối tôi bắn hiệu quả
( fire for effect). Tôi đề nghị:
-Đề nghị Mê Linh cho tụi nó d́u em xuống đồi, đồi cao như vậy thế
nào tụi nó cũng phải tập trung dưới chân đồi băng bó và nghỉ mệt một
lát rồi mới di chuyển, đợi tụi nó tập trung đông, ḿnh làm một lần
đưa em vào hạ, dứt cội da. Thiếu Tá Mễ ph́ cười nói OK. C̣n Thiếu Tá
Duffy không hiểu tiếng Việt cũng nhe răng cười theo nói OK đô.
Tôi gọi xin chuẩn bị bắn T.O.T ( time on taget ) tức là các vị trí
pháo binh xa gần bắn trước sau nhưng cùng lúc đạn nổ trên mục tiêu,
đợi 20 phút sau khi địch không c̣n khiêng quân xuống đồi nửa, tôi
cho lệnh tác xạ. Lúc này th́ họ nhà pháo cũng đă biết tin nên đích
thân Bùi Đức Lạc cho bắn tối đa, tiếng đại bác từ các căn cứ thi
nhau rót vào mục tiêu, c̣n Mông Cổ nhà ta ( anh em đùa vui Nhảy Dù
dũng mănh như quân Mông Cổ) th́ đứng dọc theo chiến hào quan sát như
là một chuyện thường t́nh ( tiếng đạn pháo nổ tới tấp). Dứt loạt đạn
tôi hỏi xem ḿnh có lục soát không, Thiếu Tá Mễ nói để Trinh Sát làm
chuyện này. Đến trưa th́ một loạt đạn pháo binh của địch từ dẩy đồi
hướng tây đối diện và chỉ cách khoảng hơn một cây số với Đại đội 112
bắn qua, tiếng depart cũng giống như đă bắn hôm qua, vậy là tụi nó
đưa 75 ly nhắm qua thằng 312 để trả lể rồi, tiếp loạt đạn này là
những trái đạn 105 ly rồi hỏa tiển 122 ly thi nhau rót xuống Charlie
mở đầu cho trận chiến khốc liệt nhất tại Quân khu 2 từ trước đến
nay, và từ đó Charlie không một phút nào b́nh yên.
Trừ 75 ly không giật bắn thẳng trúng mục tiêu th́ những loạt đạn
khác rơi đâu đó ngoài căn cứ Charlie, như vậy là tụi nó không có đề
lô, anh em đề lô chúng tôi thay nhau đo hướng và phản pháo, khi
chúng tôi phản pháo th́ địch im tiếng súng, dứt loạt pháo là bọn
chúng trả lễ. Các cuộc đấu pháo diễn ra như cơm bửa, và là lần lần
th́ những loạt pháo binh tầm xa của địch rơi trúng căn cứ, đến ngày
29/4/1972 th́ chúng đă điều chỉnh pháo binh được toàn bộ Charlie mà
nặng nhất là vào C2. Chúng tôi biết đề lô của địch đă áp sát được
căn cứ và điều chỉnh được mục tiêu. Tôi nói với Trung úy Cho:
- Tôi nghỉ mấy ngày đầu tụi nó pháo thăm ḍ khả năng ḿnh, sau đó
mới kéo 130 ly đến gần để bắn chính xác hơn và cũng ngoài tầm phản
pháo của ta ( đại bác 130 ly của địch bắn xa 32 cây số, c̣n 155 của
ta th́ 15 cây số, và 105 ly của ta th́ chỉ gần 11 cây số mà thôi ),
chổ ḿnh dể lên hơn cả, thế nào tụi nó cũng đánh hướng ḿnh.
Sau đó tôi cũng chia xẻ mối âu lo này cho Trung úy Đúng:
- Tụi nó chắc chắn sẻ tapi tôi sau màn pháo kích dữ dội, những yếu
tố tác xạ tôi đă điều chỉnh xin 310 gọi bắn phụ nếu tôi bắn không
kịp. Trung Úy Đúng nói
- Tôi cũng nghỉ như vậy, chổ của 314 dể lên lắm.
- Tôi thấy khói xịt từ ngọn đồi ngay trước mặt thằng 312 bắn qua, có
lẻ 75 ly hoặc 57 của tụi nó trực xạ rớt qua luôn bên tôi sao không
thấy thằng 312 gáy ( xin bắn).
-314 quan sát được bắn luôn đi, khỏi nhờ 312. Hết.
Dứt chử “hết” tôi hiểu ngay Chuẩn Úy Sơn đề lô Đại đội 112 bị pháo kích đă tử trận. Tôi vẽ thêm tuyến pháo binh cận pḥng trùm lên thêm hướng Tây Nam để bắn che cho Đại đội 112. Lợi dụng pháo binh tầm xa pháo kích, 75 ly của địch bắn thẳng từng vị trí của ta mà không sợ phản pháo v́ chúng tôi phải chui vào hầm tránh pháo. Dứt loạt pháo tôi chạy vội ra tuyến điều chỉnh pháo binh bắn cấm chỉ ( tức là bắn rời rạc thỉnh thoảng từng quả không cho địch hoạt động) vào vị trí pháo trực xạ của địch, nhưng không hề hấn ǵ, chắc tụi nó khoét hầm trong núi, mổi lần pháo tầm xa pháo kích th́ chúng kéo súng ra bắn theo để khỏi lộ vị trí. Tôi gọi 310 xin mổi lần tôi bị xơi pháo th́ cứ gọi Phở ḅ (pháo binh) nào của ta rảnh th́ bắn cấm chỉ không cho tụi nó kéo pháo ra trực xạ.
Từ ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie bị pháo kích thật nặng, mổi ngày cở ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi đến đại bác 122 ly, và cả hỏa tiển 122 ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu Tá Lạc tụi tôi bị ăn 130 ly, ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lănh pháo? Lúc này Đại Tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn II Dù ở Căn cứ Vơ Định cũng đă tŕnh lên cấp trên xin cho 11 Dù rút ra ngoài căn cứ, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lănh pháo như thế này th́ phản chiến thuật quá, nhưng Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn II vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết mẹ ǵ chiến thuật và pháo binh, vẫn kiên tŕ áp lực…tử thủ, chắc là định dùng 11 Dù nhử cho địch lên tapi như Đại Đội 2 Trinh Sát Dù tử thủ ở Đồi C1 dứt gần hết cả Tiểu đoàn cộng quân nằm phơi xác ở đồi C1, v́ trận này mà cộng sản đă lên án tử h́nh Đại úy Trương Văn Út, Đại đội trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại đội này. Quân đoàn II c̣n lệnh cho 11 Dù ra hố pháo t́m chứng tích của đầu nổ130 ly mới cho B52 dập. Quân đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba quân số 11 Dù bị loại ra ngoài ṿng chiến v́ đạn pháo và chưa đươc di tản. Cái hào quang chiến thắng của thượng cấp ngoài binh chủng đo bằng máu của Dù thật quá đắt, và quả thật nếu không bị pháo kích từng phút một, chúng tôi có thể ra hố đạn đo hướng bắn và bới t́m đầu nổ, nhưng làm sao gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ thị đây. Hằng trăm thương binh, mấy chục binh sỉ tử thương v́ pháo c̣n chưa di tản được nằm đầy các giao thông hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được cách C2 500 mét th́ nói ǵ đáp xuống tăi thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một pass B52 đánh về hướng Nam gần Charlie th́ nhằm nḥ ǵ, pháo của chúng đặt về hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20 cây số th́ không dập. Mổi lần bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi cơ bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi chỉ c̣n biết ước lượng vị trí pháo địch gửi về các pháo đội tùy nghi phản pháo nếu có thể. T́nh h́nh hết sức khẩn trương, nếu không có lệnh rút, chắn chết hết v́ pháo.
Sáng sớm ngày 01/4/72, đúng như chúng tôi dự
đoán, sau màn điểm tâm đại pháo các loại, địch bắt đầu tấn công từ
hướng Nam Charlie trực diện Đại đội 114. Địch đông như kiến bám theo
các thân cây cổ thụ dùng đủ các loại súng bắn thẳng vào vị trí Dù,
trong lúc đó, đề lô địch cũng chuyển xạ vào các vị trí pháo binh của
ta để cấm chỉ không cho yễm trợ. Lúc này đă lộ rỏ ư định của địch,
mấy hôm nay, chúng chỉ pháo kích Charlie chứ không pháo vị trí pháo
binh của ta, để ta lầm tưởng chúng chỉ pháo kích Tiểu đoàn 11 chứ
không đánh, rồi ta chỉ lo phản pháo mà quên đi bộ binh của chúng
đang im lặng tiếp cận ta. Như vậy có thể Charlie bị bao vây rồi.
Cũng may việc giương đông kích tây này mà các pháo đội của ta không
bị pháo binh địch điều chỉnh chính xác, cho nên c̣n rảnh tay yễm trợ
được cho tôi. Trước mặt chúng tôi tôi là đơn vị tinh nhuệ nhất của
cộng sản Bắc Việt, Sư đoàn 320 có một Trung đoàn có biệt danh là quả
đấm thép đang dàn hàng ngang trước mặt chúng tôi ồ ạt xông lên bất
kể phi pháo, Đại đội 114 anh dũng bắn trả, Đại đội 112 cũng tiếp
ứng, những người lính Dù thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng
Ḥa đứng thẳng từ các chiến hào đan một lưới lửa ra ngoài pḥng
tuyến, và tất cả hệ thống tác xạ pháo binh đều chuyển qua hết tần số
của tôi, sẳn sàng gom bi.
-415, 416, 417 đây 314 xin tác xạ, địch tấn công, trường ca L1, L2,
L3 (các hỏa tập pháo binh làm thành những tuyến cản). Một quả. Bắn
khi sẳn sàng. Hết.
Không cần tôi xin tác xạ. Các pháo đội đạn đă lên ṇng khi biết tôi
bị tấn công, nên khi nghe được tiếng tôi gọi bắn th́ đă nghe tiếng
depart, những tiếng hú rợn người lướt qua đầu, đất tung mù mịt trước
mắt.
- Các trường ca. 5 tràng. Bắn hiệu quả. Hết.
Đạn túa túa hú gọi mục tiêu, những cây cổ thụ bật gốc ngoài pḥng
tuyến, bụi tung mù mịt, cứ hể dứt loạt đạn pháo của ta th́ địch cũng
nhỏm dậy bắn vào, chúng đă đào các hố núp ngoài vị trí nên liều lỉnh
bắn che cho tốp khác từ hướng tây nam tiến lên, bất kể đạn pháo,
những con thiêu thân dàn hàng xung phong lên đồi. Lúc này th́ phi cơ
đă lên vùng sẳn sàng thả bom, Trung úy Cho nói với tôi:
-Nếu tụi nó vượt được hàng rào th́ bắn ngay sát tuyến của ḿnh. Tôi
trả lời :
-Trung úy bảo các con đội nón sắt và mang luôn ba lô luôn che phía
sau lưng, lở có trái nào lọt vào tuyến th́ phải chịu, nếu chịu tôi
mới dám bắn.
Trung úy Cho nói OK, và tôi gọi các vị trí bắn gần lại từng chục mét cho đến khi sát tuyến. Những loạt đạn cận pḥng này rất có hiệu quả và không biết có quả nào lọt vô luôn trong pḥng tuyến hay không v́ đạn pháo của cả hai bên lúc này bắn dử quá. Sau mổi loạt pháo tôi lại nhỏm dậy nh́n ra ngoài, xác địch đầy ngoài tuyến nhưng chúng vẫn bám chắc không chịu rút lui. Tiếng súng lúc này đă rời rạc, có thể chúng chỉ lui lại để làm một cái ǵ đó. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 bảo ngưng tác xạ để tụi Tây (tức phi cơ Mỹ) nó làm việc, những chiếc phóng pháo cơ vào vùng nảy giờ gầm thét ngang trời thả những loạt bom ngoài ṿng rào, chỉ cách vị trí cở 50 mét, những núi lữa bốc lên cao sau mổi tiếng nổ. Lần đầu tiên trong đời lính, tôi thấy Nhảy Dù chịu chơi dám thả bom gần như vậy và bắn pháo binh cách ḿnh hai ba chục mét ( hiệu quả sát hại của pháo binh 105 ly là từ 50 đến 100m, bắn cách ḿnh cở hai ba chục mét là rất liều lĩnh và hết sức nguy hiểm). Con cháu bác và đảng cũng không ngờ những người lính Dù chịu đựng dưới mưa pháo khủng khiếp nhiều ngày, pḥng tuyến bể hết mà vẫn gan dạ tử thủ như thế.
Bên tai tôi có tiếng gọi của Thiếu Tá Lạc, ông
bảo tôi có cần ǵ th́ tất cả đều sẳn sàng, và tôi trả lời nếu gà
ḿnh c̣n gáy ( tức pháo binh c̣n bắn ), th́ không có tên răng đen mă
tấu nào nào có thể bước qua 114 được. Sở dỉ tôi dám khẳng định như
vậy là nhờ tinh thần chiến đấu dũng mảnh của anh em 114 Dù cho tôi
sự an toàn trong lúc gọi pháo, nếu không th́ bể tuyến lâu rồi. C̣n
Trung úy Đúng th́ rất tế nhị không xen vào hệ thống tác xạ, để dành
hết thời gian cho tôi gọi các pháo đội bắn, 310 cũng dặn tôi cẩn
thận, tụi nó tạm yên là có vấn đề mới, nhớ canh chừng thêm phía
thằng 112. Vừa lúc đó th́ hàng loạt tiếng depart từ trong núi vọng
về, thôi rồi, lần nầy chúng tập trung tất cả các loại pháo chứ không
riêng ǵ 130 ly rót tới tấp vào vị trí ta, ít nhất cũng 5 vị trí
pháo của chúng bắn đồng thời vào C2, đây là một kiểu bắn T.O.T giống
như của ta, C2 rung lên dưới những cơn địa chấn, tôi chạy vội vào
hầm, tất cả các vị trí tác chiến và pháo binh của ta đều bị pháo,
tiếng các pháo đội gọi báo cáo ồn hẳn lên trên hệ thống rồi im lặng
vô tuyến, có vị trí trúng pháo nhưng không trúng hầm đạn nên không
có tiếng nổ phụ. Tụi nó mà điều chỉnh được các vị trí pháo của ḿnh
th́ bỏ bú, vừa lo sợ tôi cũng vừa t́m những ngôn từ dễ thương như
thế để trấn áp nổi hồi hộp, sau loạt pháo này là chúng mày sẻ tràn
biển người lên lấy thịt đè người, Nhảy Dù cố gắng, Nhảy Dù cố gắng,
tôi lẩm bẩm bốn chử đơn giản này, binh chủng chúng tôi không có
những khẩu hiệu đao to búa lớn, rất đơn giản như một sự cố gắng, anh
em chúng tôi hết thế hệ này đến thế hệ khác cố gắng làm cho máu đồng
bào bớt đổ bằng chính máu của chúng tôi. Trong tiếng pháo nổ vang
trời, tôi nhấc máy gọi 310:
-310 có nghi tụi đề lô nó áp sát ḿnh không, nghi tụi nó ở đâu th́
con gà nào của ḿnh “quởn” cho gáy đại vài tiếng dằn mặt tụi nó cho
biết thế nào là lễ độ, chứ chơi như vậy hiếp quá. Nhưng 310 vẫn im
lặng. Một sự im lặng rợn người v́ tất cả im lặng chờ đợi.
Dứt loạt pháo bắn T.O.T này, quả nhiên địch hô xung phong, nhưng tiếng hô xung phong càng lúc càng yếu, chúng tôi đă quen thuộc kiểu này, chúng mày chém vè ai mà không biết, chắc chắn chúng mày bị thiệt hại rất nặng nếu không th́ đă là nhào lên tiếp để…lănh đạn rồi. Những tiếng pháo thưa dần tại C2 nhưng các vị trí pháo của ta vẫn c̣n bị cấm chỉ, tôi nh́n ta phía Yankee, những cột khói bốc lên, rồi căn cứ 5 và căn cứ 6 cũng thế, tụi nó đang điều chỉnh pháo binh. Thấy mẹ rồi.
Chiều đang xuống dần, những người lính cũng vội
vă sửa lại hầm hố, đào giao thông hào cho sâu thêm, người chết và
thương binh tăng thêm làm nặng thêm mối âu lo của Tiểu đoàn, tôi
chạy vội ra phía hai đệ tử đang ngồi chong mắt nh́n ra ngoài tuyến,
trên tay hai đứa có hai cây M16 và dây đạn từ lúc nào ( hai đệ tử
pháo binh mang máy cho ông thầy thường không đem theo súng).
- Khỏi cần nấu cơm, tao ăn cơm sấy được rồi, có ǵ nhớ kiếm tao. Hai
đệ tử nh́n tôi, lo lắng, tôi hất mặt về hướng đông căn cứ không nói,
nhưng chúng cũng hiểu tôi nói ǵ.
Một đơn vị tổng trừ bị cơ động vào bậc nhất của quân đội bị chôn
chân làm vật tế thần, đóng quân ở Charlie ngày ngày ăn pháo không
khác nào con dê bị trói vào cột đợi ngày hiến tế, Việt cộng quá nóng
ḷng đánh gấp để lấy tiếng trên bàn Hội nghị Paris là đă tiêu diệt
được một đơn vị Nhảy dù, chứ nếu chúng khôn ngoan một chút th́ chỉ
cần pháo thôi là cũng đủ tiêu tùng hết. Tiểu đoàn xin rút, Lử đoàn
xin rút, Quân đoàn cũng không cho, có một âm mưu ǵ muốn chúng tôi
thân bại danh liệt tại ngọn đồi vô danh này, họ muốn biến những
người lính 11 Dù thành những chiến sỉ “L’enfer Des Hommes” tức là
những người ra đi không về trên ngọn đồi quyết tử trong bộ phim vừa
chiếu ở Saigon hay sao, nếu là những đơn vị khác th́ đă rút đi lâu
rồi. Thật oan nghiệt cho những người lính mang danh những đứa con
của Thần Chiến Thắng Micae ( Tổng Lănh Thiên Thần Micae là Thánh bổn
mạng của binh chủng Dù Việt Nam Cộng Ḥa).
Những ngày hôm sau địch tiếp tục pháo căn cứ, và sau loạt pháo là mon men đánh thăm ḍ tiếp Đại đội 114. Liên tiếp trên một tuần, 114 bị tấn công nhưng mức độ chỉ vừa phải, và không lần nào địch vào được sát tuyến, sau mổi lần tấn công thất bại, đêm về là chúng ḅ lên lấy xác, và Đại đội 114 cũng không buồn ḅ ra ngoài thu chiến lợi phẩm. Sau mổi đợt pháo kích, căn cứ càng xơ xác không c̣n nh́n ra h́nh dáng nửa, từng tấc đất bị xới lên, mùi thuốc súng nồng nặc khắp nơi, cây cối bị khói ám đen thui và bị mănh đạn pháo chém ngang dọc ngả nghiêng, hầm hố tanh banh, tôi có căm tưởng một con kiến cũng không sống được, những cuộn băng vết thương văng tung tóe dính trắng xóa trên các ngọn cây, địch đă điều chỉnh được toàn bộ căn cứ C2, pháo vô là trúng phóc. Những hàng dây kẽm gai cao ngang ống chân ngoài tuyến Đại đội 114 giờ biến đâu mất dưới cả hai làn pháo của ta và địch, có thể nói là nằm lăn xuống đồi cũng không c̣n vướng một cộng kẽm nào. Những ngày đầu chúng chỉ bắn bằng đạn nổ, những ngày sau th́ xen vào đạn delay tức là đạn chui vào ḷng đất hơn một mét rồi mới nổ, không có hầm hố nào chịu nổi cả, thế mà ngoài pḥng tuyến anh em Dù vẫn sống, vẫn thở, những người chết và bị thương th́ vẫn nằm chung với anh em dưới chiến hào, mùi thuốc súng và đạn pháo đánh át đi mùi tử khí, nội hơn một trăm anh em bị thương không được di tản cũng là gánh nặng tâm lư đè lên tinh thần chiến đấu của người lính. Nhưng đây là Nhảy Dù, một dân chơi thứ thiệt, dám cân hồ tất cả giới giang hồ khét tiếng sinh Bắc tử Nam th́ c̣n coi cái chết vào đâu…Là dân pháo binh nhưng tôi cũng ngán kỷ luật chiến đấu của Nhảy Dù, về Saigon chịu chơi tới đâu th́ chịu, chứ ra trận th́ có lệnh là phải tiến, không có lệnh lui th́…mẹ kiếp, trận này nằm đây chịu chết để vinh quang cho những tên không biết mẹ ǵ là chiến thuật đă trói tay chúng tôi, tận diệt.
Ngày 6/4/1972, địch tấn công căn cứ Delta của Tiểu đoàn 2 Dù ở phía Nam nhưng bị đánh bật ra để lại hằng trăm xác, không chừng Tiểu đoàn 11 Dù cũng được lệnh phải đợi địch đánh để làm giống như vậy chăng, tụi nó đánh Đại đội 114 cả tuần rồi mà, chết quá trời mà đâu có lên được. Địch lại pháo kích, nằm dưới hầm nghe đạn pháo, có những trái đạn delay rơi sát hầm, nổ tung dưới ḷng đất kêu ục ục, đất chuồi xuống, cái chết đang từ từ đến với tôi với tất cả nổi phẩn nộ, đúng là sinh nghề tử nghiệp, pháo nó th́ chết v́ nó pháo là công bằng sao, tôi đang bị trói tay mà. Sau dứt mổi loạt pháo, tôi chạy vội ra tuyến quan sát, những người lính vừa tu bổ cộng sự chiến đấu vừa đưa mắt nh́n tôi ḍ hỏi, như khẩn khoản tôi nói một lời ǵ, tôi biết họ muốn hỏi ǵ nên cũng chỉ biết hất mặt về hướng đông, đường ra quốc lộ 14, nếu bị địch tràn ngập. Ngay lúc đó th́ có một người lính dơ tay ngoắc tôi, xong chỉ về ngọn đồi xéo về hướng đông nam, tôi cúi ḿnh chạy đến, cách đó khoảng 500 mét đường chim bay, bóng một tên lính Bắc Việt in trên nền trời với tất cả thách thức, như vậy là cả ba hướng Đông, Tây, và Nam đều bị địch bao vây, vậy c̣n hướng Bắc, gần nhất với ngọn đồi Charlie của Đại đội 111, chưa biết thế nào, không đánh được thằng 114, tụi nó dám chơi thằng 111 sao, chỉ có phía Tây mới có thể đánh lên 111 mà lại là là dốc đứng nửa…Tôi gọi Hạnh chạy vào hầm báo cho Trung Úy Cho biết và xách máy PRC 25 gọi 415 bắn, điều chỉnh trúng mục tiêu rồi cũng chả ăn nhằm ǵ, dứt loạt đạn lại thấy nó đứng lên chống nạnh, như vậy là tụi nó đă khoét núi nằm sâu trong đó rồi, đâu có móc ra được. Không chừng thằng này là đề lô, tôi chỉ c̣n biết xin 415 bắn cấm chỉ khi có thể.
Những ngày kế tiếp, lương thực cạn dần, có dấu hiệu địch sẻ đánh Charlie v́ Đại đội 111 nằm riêng rẻ, c̣n thằng 113 th́ nằm kế bên pháo binh khó đánh, và chúng tôi cũng không c̣n xuống dưới chân 111 lấy nước được. Hai Trung đoàn địch quân số gấp 8 lần, luân xa chiến, tiền pháo hậu xung gần nửa tháng cũng không chơi được Đại đội 114, nên thế nào tụi nó cũng t́m hướng khác và mục tiêu th́ chỉ có Charlie của 111. Ngày 9/4/1972, địch pháo dử dội Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 và mưa pháo xuống Charlie xong bắt đầu tấn công 111. Đại đội 111 chống trả quyết liệt, xác địch đầy sườn đồi. Khu trục rồi trực thăng vơ trang vào vùng trút xuống hằng tấn bom đạn quanh căn cứ. Sau nhiều đợt xung phong không thành, địch lại rút lui để lại hằng trăm xác chết.
Lúc này th́ địch đă công khai di chuyển quân xa ban ngày, tiếng xích sắt xe tăng, tiếng xe Molotova có thể nghe thấy sau những loạt pháo. Bằng mọi giá chúng phải nhổ cái gai Charlie dầu có hy sinh cả hai Trung đoàn này th́ c̣n những Trung đoàn khác sẳn sàng vào trận để lấy tiếng trên bàn hội nghị. Không chơi được Song Kiếm Trấn Ải th́ c̣n ǵ là danh hiệu hai Sư đoàn của chúng đây. Vừa đánh chúng vừa điều quân, phía đông tức là đường rút của11 Dù, tôi đă quan sát được vị trí bọn chúng đă đặt hai cây pḥng không, một cây 12 ly 7 và một cây 37 ly. Hướng đông địch đă công khai để lộ vị trí để bắn máy bay và uy hiếp tinh thần 110. Máy bay yễm trợ cho Charlie th́ phải bay từ hướng Bắc hoặc hướng Nam rồi đánh một ṿng về hướng Tây để thả bom, xong phải chúc mủi về hướng Đông ra thẳng quốc lộ 14, địch đă đặt hai cây pḥng không tại đây chặn đầu khiến cho máy bay không dám xuống thấp, thỉnh thoảng chúng c̣n nhắm xuống Charlie trực xạ. Mổi lần máy bay vào vùng là tiếng pḥng không từ các hướng nổ đầy trời, và ít nhất cũng cả chục cây pḥng không giờ đây đă dàn trận. Pháo binh của ta th́ gần như bị tê liệt v́ bị pháo cấm chỉ của địch, cả Tiểu đoàn 11 cũng thấy được nhiều chiếc Chinook từ Phi trường Phượng Hoàng tải đạn pháo binh vừa đến Yankee th́ bị pháo và pḥng không từ hướng đông bắn qua phải trở lui, ngưng tiếng pháo th́ lại bay vào rồi lại bị bắn không đáp xuống được, cứ như vậy cả ngày. Tôi đă gọi các vị trí pháo bắn hai cây pḥng không này hoài mà cũng chẳng ăn thua ǵ. Cả nửa tháng nay chúng đă đào hầm trong núi đợi giờ quyết tử dứt điểm 11 Dù, dầu có bắn trúng cây này th́ chúng cũng sẻ điều cây khác đến. Mấy chiếc khu trục đă trúng đạn pḥng không, c̣n trực thăng vơ trang của ta hay Cobra của Mỹ là miếng mồi dể lănh đạn pḥng không nhất nên khó có thể vào vùng.
Đến giờ phút này th́ đả rỏ thế nào bọn chúng cũng
dứt điểm Charlie, sáng ngày hôm sau, Đại đội 111 bị pháo thật nặng
nề, dứt dợt pháo, bộ binh địch tràn lên, pháo binh của ta cũng bị
cấm chỉ không yễm trợ được, định mệnh đă dành sẳn cho 111, bị tràn
ngập nhưng thiệt hại vừa phải, 111 phải rút về nhập chung Bộ chỉ huy
Tiểu đoàn. Độ nửa tiếng sau, Trung Úy Thinh Đại đội trưởng 111 chạy
vào hầm chúng tôi, Trung úy Cho hỏi, Thinh kể lại :
-Việt cộng tràn lên là lo kiếm mấy cái ba lô của ta, chúng chụp được
ba lô của tôi, tôi buông ba lô chạy, tụi nó không đuổi theo, có lẻ
tụi nó đói lắm nên lên được là lo kiếm ăn, chúng lục ba lô của ta,
khui đồ hộp ra ăn tại cho (thường là khi rút lui, ta mang theo ba lô
trên lưng đề pḥng bị bắn phía sau). Ngay lúc đó th́ Trung Úy Khánh
cũng chạy vào hầm, tôi hỏi th́ Khánh cũng nói bị y như t́nh trạng
của Thinh. Tôi hỏi tiếp vậy súng của mày đâu. Khánh kéo cái địa bàn
M1 đeo nơi cổ ra nói tao chỉ c̣n có cái này. Tôi ôm bụng cười ngặt
nghẻo làm mọi người cũng cười theo. Nửa tháng nay, tôi không thể nở
nổi một nụ cười, giờ này ôm bụng cười ra nước mắt về cái chuyện tiếu
lâm có thực này thật thoải mái. Việt cộng ngoài việc bị bỏ đói phải
liều lĩnh hy sinh tính mạng kiếm từng lon đồ hộp của ta, chúng c̣n
bị ép uống thuốc “Hùng Tâm” tức là một loại thuốc kích thích uống
vào là hăng máu lên xung phong chẳng coi việc sống chết ra sao cả,
chiến thuật biển người của chúng thường kèm với liệu pháp hùng tâm
này. Cứ xem ảnh xác Việt cộng bị xích trên xe tank th́ mới biết cấp
chỉ huy của chúng dă man như thế nào.
Sáng ngày 11/4/1972, Đại đội 112 được điều xuống chiếm lại Charlie
đem theo cả Đại bác 90 ly trang bị riêng cho Nhảy Dù để bắn xe tank
hoặc phá hầm, máy bay Mỹ lại vào vùng thả bom, bay thấp th́ sợ pḥng
không, nhưng bay cao quá khó trúng mục tiêu, nên những phi đội sau,
Tiểu đoàn 11 xin thả bom napalm, c̣n pháo binh vị trí nào của ta
không bị cấm chỉ th́ pháo xuống phụ họa sau khi các phi tuần bay ra,
hết đợt này đến đợt khác, từng phi tuần của không quân Việt Nam vào
vùng trải những thảm lửa xuống Charlie, thả bom napalm phải bay thật
thấp nên rất chính xác, từng trái bom rơi trúng mục tiêu, nhưng Việt
cộng quyết cắt đôi 11 Dù nên cố thủ trong các hầm hố của ta bỏ lại.
Bất kể pḥng không, một chiếc phi cơ nóng ḷng bay thật thấp xuống
mục tiêu, thả một quả bom napalm, lúc ngóc đầu bay lên th́ cánh bên
phải vướng vào ngọn cây trên ngọn đồi phía đông kế bên chổ hai cây
pḥng không, bị gảy cánh rồi rớt xuống đồi nổ tung, viên đại úy phi
công Việt Nam đă oanh liệt hy sinh. Chiếc c̣n lại bay ṿng ṿng t́m
đồng đội, sau khi xác định được vị trí , bèn quay trở lại Charlie,
giận dử trút xuống những trái bom lửa c̣n lại . Lửa thiêu cháy
Charlie, thiêu luôn cả những con thiêu thân đợi ngày giải thoát.
Ngày 12/4/72, để trả thù cho đồng bọn bị lửa bom đốt sạch tại Charlie, địch tăng cường pháo kích thật mạnh lên đồi C2, từng tấc đất bị cầy lên như địa ngục có thật, tôi ngồi trong hầm lại nghe cái chết đến từ từ, ước lượng có đến cở gần 10,000 quả đạn đại bác các loại rơi xuống C2 kể từ ngày tử chiến, ngoài hầm bê tông cốt sắt ra chứ hầm hố như thế này th́ làm sao chịu nổi, bất cứ đơn vị nào mà trấn thủ nơi đây chắc là phải tự động rút từ lâu rồi, tôi không dám nghỉ đến một điều xấu nhất dành cho ḿnh, không biết nhà tôi và đứa con đầu ḷng đang mang trong người giờ này ra sao, mổi lần tôi đi trận, nhà tôi đều dặn cầu nguyện Đức Mẹ che chở, giờ tôi đang làm điều này…Chợt thấy Trung úy Cho nhổm dậy cầm lấy máy nghe rồi lo lắng, tôi cũng qua tần số Trung úy Đúng hỏi, Trung Tá Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Song Kiếm Trấn Ải đă gẩy cánh thiên thần sau loạt pháo kích vừa rồi, một quả 130 ly trúng hầm, Trung tá Bảo hy sinh c̣n Thiếu Tá Duffy và Thiếu Tá Mễ ở hầm khác chỉ bị thương nhẹ. Thiếu Tá Mễ lên thay. Suốt ngày hôm đó, địch tiếp tục pháo kích C2 và bắn cấm chỉ các vị trí pháo binh của ta. Một bịch gạo xấy cả tuần nay tôi nuốt không hết, miệng thật đắng c̣n nước uống th́ đo bằng từng nắp bi đông, riêng việc vệ sinh th́ giải quyết ngay ngoài miệng hầm. Pháo dử quá nên tôi cũng giới hạn bớt chạy ta ngoài tuyến quan sát. Trên tấm bản đồ, tôi ghi chi chít những vị trí nghi ngờ pháo của địch báo cho Trung úy Đúng và Trung úy Đúng cũng chẳng làm được ǵ khác hơn, gần tối địch ngưng pháo kích, tôi thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi Hạnh chạy vào lay chân tôi dậy hỏi cần ǵ không, tôi lắc đầu.
Sáng ngày 13/4/1972, Đại đội 113 được lệnh đi lên
phía Bắc t́m bải đáp, c̣n Đại đội 111 lên ngọn đồi phía Đông xem có
chổ nào tải thương được không. Khi Khánh chui vào hầm tôi, tôi thấy
mặt có vẽ nghiêm trọng, không c̣n cái giọng Nha Trang đơ đớ Quăng
Ngăi nửa, không thấy có vẽ đùa cợt hàng ngày như lúc c̣n ở hậu cứ,
tôi bảo Khánh chạy theo tôi ra ngoài tuyến và chỉ về ngọn đồi mục
tiêu trước mặt, theo hướng tôi chỉ, bóng tên Việt cộng đứng gác vẫn
c̣n đó, tôi lại chỉ Khánh chổ vị trí hai cây pḥng không cách đó
không xa và nói:
- Tụi nó đầy ở trên đó, tao bắn hoài cũng chả ăn thua ǵ, mày hết
sức cẩn thận, nếu muốn bắn mở đường tao bắn cho, khi lên coi chừng
pḥng không tụi nó trực xạ. Khánh trở lại 111 bàn với Trung Úy Thinh
và cũng không thấy xin bắn mở đường, chắc là muốn giử im lặng.
Độ nửa tiếng sau, súng nổ vang dội từ triền đồi bên kia, 111 lên
được gần đến đỉnh đồi th́ địch khai hỏa, bằng luôn cả pḥng không
trực xạ. Không thấy Khánh xin tác xạ, tôi muốn bắn phụ lắm, nhưng
giờ này không biết nó ở chổ nào. Súng vẫn nổ, một chốc tôi nghe
tiếng Khánh trong máy, Trung Úy Thinh, Đại đội trưởng 111 đă tử
trận, Khánh lên thay. Rồi một chốc lại nghe tin Trung sĩ Lung gọi
máy, tôi biết Khánh cũng đă nằm xuống…cánh dù lộng gió muôn phương –
vào ḷng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi. Đại đội 111 thêm lần nửa tan
hàng. Một số c̣n lại rút về được căn cứ. Cả ngày đó địch vẫn tiếp
tục giử mức độ pháo kích khủng khiếp, lương thực và đạn dược lại cạn
dần, lại thêm người chết và bị thương. Đêm dần xuống, tôi nằm trong
hầm buồn lắm, Trung Tá Bảo ra đi hôm qua, Chuẩn Úy Sơn đề lô ra đi
trong loạt pháo đầu tiên, Khánh vừa đi sáng nay, Lạc bị thương nặng
chưa biết ra sao, c̣n những người khác th́ nằm đầy ngoài chiến hào,
bao giờ th́ rút đây, không phải tôi bi quan, mà tức v́ cái lệnh tử
thủ quái ác từ đâu đâu, chết như vậy thật uổng mạng.
Ngày 14/4/1972, Tiểu đoàn 11 Dù tự quyết định rút
lui vào ban đêm, nhưng vào buổi trưa sau những đợt pháo kích dử dội,
địch xung phong lên từ phía Đại đội 114 đồng thời pháo luôn các vị
trí pháo của ta, tôi gọi măi mà không con gà nào chịu gáy, ngoài
tuyến, không c̣n sợ pháo binh ta bắn cản, địch nhào lên đông như
kiến cỏ, Đại đội 114 chống cự không lại phải rút về dàn hàng ngang
với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, máy bay cũng đă lên vùng bỏ bom ngay trên
tuyến 114, hai bên giành nhau từng hầm hố, từng giao thông hào. Pháo
binh ta coi như bị tê liệt, tôi đứng dưới giao thông hào sát với
Thiếu Tá Mễ, và Thiếu Tá Đoàn Phương Hải Trưởng ban 3 giờ kiêm Tiểu
đoàn phó, Trung Úy Đúng đứng kế bên, cạnh đấy là Bác sĩ Tô Phạm
Liệu, một Bác sĩ Nhảy Dù mê đánh trận c̣n hơn cầm ống chích, lưng
đeo khẩu Colt 45, tay cầm súng M 16 giơ lên, miệng hét binh sĩ ráng
giử vững vị trí, tôi nghỉ thầm trong bụng nói cha nội này đi quân y
uổng quá, phải cầm quân đánh nhau mới đúng. Thỉnh thoảng tôi lại gọi
máy, khản cổ họng nhưng pháo binh của ta im lặng vô tuyến v́ vẫn c̣n
bị pháo kích. Lúc này mặc dù chiếm được gần một nửa C2 nhưng địch
vẫn chưa dám nhào tới cận chiến nên pḥng tuyến thứ hai của ta vẫn
giử được. Chổ tôi đứng, xác một binh sĩ Dù nằm trên chiến hào ngay
trước mặt, chết đă nhiều ngày, xác trương lên nhưng không thấy mùi
hôi v́ đầy thuốc súng, c̣n trên ḿnh mang thêm nhiều mănh đạn pháo
sau đó, có lẽ chết hai ba lần. Bổng Hạ sỉ Hạnh chạy tới chổ tôi nói:
- Em kiếm Trung úy nảy giờ, Thằng Nhỏ bị thương muốn gặp Trung Úy.
Tôi cúi đầu xuống chạy dọc ra ngoài tuyến, gặp Nhỏ đang nằm dưới
giao thông hào, bụng bị mảnh pháo phá nát, ruột đổ ra ngoài dính đầy
bụi đất. Tôi cúi xuống, Nhỏ th́ thào bên tai:
- Em khát nước quá, Trung úy đái cho em uống.
Giửa tiếng đạn bay, tôi muốn khóc mà không rơi được giọt lệ, đệ tử
tôi đến giờ phút hấp hối c̣n nghỉ đến ông thầy. Tôi nghẹn ngào nói
với Nhỏ:
- Em c̣n điều ǵ muốn nói th́ nói cho Hạnh biết, anh c̣n phải coi
xem c̣n bắn được hay không.
Nói xong tôi đưa bi đông nước c̣n lại một chút cho Hạnh để cho Nhỏ
uống rồi gạt nước mắt định chạy về chổ Thiếu Tá Mễ. Ngay lúc đó có
nhiều tiếng đạn AK bắn xéo trên đầu tôi, khói súng mù mịt không thấy
rỏ phía triền đồi, tôi rút quả lựu đạn M26 ném xuống dưới chân đồi.
Đây là quả lựu đạn đầu tiên trong đời lính tôi sử dụng để ngăn địch.
Không cần quan sát hiệu quả lưu đạn vừa rồi, tôi chạy lại phía Thiếu
Tá Mễ. Giờ phút này địch đă lên được hơn nửa đồi C2 và từ hướng Nam
cùng với hướng Tây đánh lên, cả Tiểu đoàn 11 chuẩn bị một màn cận
chiến, bổng một viên đạn AK bắn trúng b́nh khói cay E8 của ta đặt
trước mặt Thiếu Tá Mễ cở chục mét. Tôi thấy rỏ gió thổi ngược khiến
cho khói cay màu vàng bay ngược về hướng Tiểu đoàn, những người lính
la lên địch pháo khói cay rồi rút về phía Tiểu đoàn, và Tiểu đoàn 11
chính thức rời bỏ Charlie vào lúc này, nếu không bị b́nh khói cay
th́ không biết thế nào, đây có lẽ trời khiến cho 11 Dù không bị tràn
ngập trên đồi C2.
Cũng may địch sợ ta dùng chiến thuật “đồng ư quy tận” tức là gọi
pháo binh bắn ngay trên đầu cùng chết với địch nên không dám duổi
theo, nhờ vậy chúng tôi xuống đến chân đồi không có phát súng nào
bắn theo. Trời hơi tối, địch cũng không dám pháo kích nửa sợ lộ vị
trí, vă lại chúng đă lên đầy trên C2 và giờ đây có lẽ đang lục hầm
kiếm thức ăn, nên pháo binh của ta hoạt động lại được bắn chận không
cho địch truy kích. Rút theo hướng đông nam độ vài trăm mét th́ nghe
nhiều tiếng rít xé trời, bom B52 rơi xuống Charlie cày nát thành
b́nh địa. Đại đội 113 ở hướng Bắc hầu như c̣n nguyên vẹn từ ngày đầu
đến giờ không bị đánh cũng như không thiệt hại v́ pháo kích, nên
được lệnh đi ngược xuống Yankee t́m đường ra PZ (tức bải bốc, tiếng
Anh là Picking Zone), trên bản đồ cách Charlie khoảng gần 4 cây số.
Trời tối, đồi cao, rất khó đi, máy bay lên vùng thả hỏa châu soi
sáng, những dây đạn M 79 từ phi cơ OV10 rót đều phía sau chận hậu,
nổ tụp tụp bum bum nghe như một điệp khúc buồn nản của chiến tranh.
Binh sĩ c̣n khỏe d́u những người bị thương nhẹ, thật không thể tưởng
tượng được có người bị thương ở chân phải đi bằng cả hai tay ở những
đoạn dốc khó đi không thể d́u được, bản năng sinh tồn của con người
nhất là của người lính chiến th́ không có ǵ có thể diễn tả ra hết
được. Cạn hết lương thực, đạn dược, thuốc men, và dưới những cơn mưa
pháo khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, hơn một
trăm con người c̣n lại này chia đều mổi người đă lănh cở gần 100
trái đại bác, thử hỏi c̣n có ai chịu đựng được như thế không. Tôi
chợt nhớ đă đọc đâu đó một câu nói của danh tướng My,ơ Mac Authur ”
Tôi thương những người lính bộ binh hằng ngày 24 giờ phải đối diện
cái chết trên chiến trường, lại c̣n phải gánh chịu những bất công
của thượng cấp”. Nghỉ lại hoàn cảnh của 11 Dù c̣n tệ hại hơn thế
nửa, bị trói tay để đánh.
Đến gần sáng th́ ra đến bải bốc giống như một cái
thung lũng cạnh một con suối, đây là một khoảng trống đầy lau sậy,
Tiểu đoàn 11 kiểm tra lại quân số và chia khu vực pḥng thủ đợi trực
thăng bốc về Vơ Định. Tôi và đệ tử Hạnh được cắt lên slick trực
thăng sau cùng của Đại đội 114. Thông thường khi đi hành quân trực
thăng vận, đề lô phải nhảy theo toán đầu tiên và khi rút th́ đi sau
hết, để có thể gọi pháo binh bắn bất cứ lúc nào.
Ngày 15/4/1972, trời sáng dần, khi ánh nắng mặt trời đầu tiên trong
ngày vừa sáng hẳn lên từ phương đông th́ có tiếng trực thăng bay
đến, dẫn đầu là hai chiếc Cobra và phía sau là một đoàn Trực thăng
UH1B của Mỹ, hai chiếc Cobra có trang bị rocket bay một ṿng quanh
bải bốc quan sát, một trái khói màu vàng được thả ra đánh dấu chổ
trực thăng đáp xuống, chiếc UH1B thứ nhất vừa xà xà xuống mặt đất
th́ có tiếng đạn cối rơi xuống nổ ngay chóc bải đáp rồi hằng chục
tiếng pháo cối 82 ly tiếp tục rơi xuống, những chiếc trực thăng vội
vàng bay thẳng lên không bốc được toán nào. Dứt loạt cối, Việt cộng
từ hai bên triền đồi xuất hiện như mọi da đỏ dàn hàng ngang xung
phong y hệt trong phim cao bồi viễn tây, v́ đồi lau sậy thưa thớt
nên rất dể thấy chúng không thổi kèn xung phong mà vừa chạy, vừa
bắn, vừa hô “hàng sống chống chết” vang trời. Tiểu đoàn 11 Dù đang
bị nguyên một Trung đoàn Việt cộng phục kích, Trung đoàn này được
lệnh đi đánh phi trường Phượng Hoàng đêm trước, khi Tiểu đoàn 11 Dù
rút lui khỏi Charlie, chỉ huy của chúng đoán được ta sẻ bốc quân tại
đây nên cho lệnh Trung đoàn này lui trở lại để phục kích định hốt
gọn 11 Dù, bọn chúng tưởng khi pháo ở giửa tất nhiên ta sẻ bung chạy
tản ra chung quanh, bọn chúng đă phục kích sẳn sẻ hốt gọn, nhưng
không ngờ khi chúng tràn xuống, th́ Nhảy dù cũng bung ra chống lại
mănh liệt. Trận chiến lúc này như một cái nia đựng đậu đen và đậu
trắng sàng qua sàng lại lẫn lộn như đang đánh xáp lá cà, chổ nào
cũng có tiếng AK47 và M16 nổ lẫn lộn c̣n hơn pháo Tết, coi như cả
Tiểu đoàn 11 trừ cùng bắn nhau một lúc với một Trung đoàn Việt cộng,
hai bên chạy qua chạy lại thấy đâu bắn đó như xinê, làm Cobra bay
trên đầu cũng không biết bắn vào đâu, một chiếc trực thăng liều chết
đáp xuống đất, tôi thấy một số người chạy tới leo lên, những chiếc
sau vừa xà xuống th́ Việt Cộng cũng rượt gần đến nơi, xạ thủ đại
liên Nguyễn Tấn Vinh (hiện ở Houston) dừng lại ôm Đại liên 60 ria
hết luôn một dây đạn c̣n lại, Việt cộng ngả rạp xuống đồi rụng như
sung, viên đạn đại liên cuối cùng vừa ra khỏi ṇng là mấy cây AK đă
chỉa vô đầu Vinh, có lẽ v́ căm phục tinh thần anh dũng của người
lính Nhảy Dù này mà chúng không giết để trả thù cho đồng bọn, chỉ
bắt sống. Nhờ ḷng quả căm của người xạ thủ đại liên này mà một
slick duy nhất 4 chiếc trực thăng đă bốc được Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn
11, Sĩ quan liên lạc pháo binh, và cố vấn Duffy, nhưng Thiếu Tá Đoàn
Phương Hải Trưởng ban 3 (hiện ở San Jose) th́ bị một viên đạn AK bắn
xuyên bàn chân từ dưới đất lên, rớt xuống máy bay, may nhờ Thiếu Tá
Duffy gan dạ quay trực thăng trở lại kéo lên.
Đạn hai bên vẫn nổ tới tấp, thêm một cặp Cobra và một slick trực
thăng khác vào vùng bay ṿng ṿng trên trời. Việt cộng chỉ bất ngờ
đi phục kích nên không đem theo pḥng không cho nên trực thăng của
Mỷ mới hoạt động được nhưng chỉ bốc chứ không dám bắn v́ sợ trúng
quân bạn. Chiến trường lần lần bớt đi tiếng súng, nhưng tiếng kêu
hàng vẫn c̣n nghe văng vẳng, tiếng trực thăng vẫn c̣n nghe vần vũ
trên đầu. Lúc này tôi đang sát dưới bờ suối với ba bốn người lính
nh́n lên khá rỏ nên bảo họ chạy theo tôi ra băi may ra trực thăng
thấy được rỏ đồ rằn ri so với đồ vàng bụi đất của Việt cộng mà bốc
chúng tôi lên. Những người lính nghe theo tôi chạy lên triền đồi,
đang chạy, tôi thấy một chiếc Cobra bay phía bên trái ngược hướng
tôi chạy lên, chừng quay lại phía sau thấy nó ṿng lại nghiêng cánh,
kinh nghiệm chiến trường đă cứu tôi thoát chết, Cobra mà nghiêng
cánh về phía nào là nó bắn rocket về phía ấy, chắc là trực thăng nó
thấy Việt cộng rượt theo chúng tôi nên bắn, tôi chỉ kịp hô:
- Dạt ra một bên, trực thắng bắn.
Tôi vừa nhào đại qua một bên th́ một tiếng rocket nổ như trời giáng
cách tôi cở vài mét không c̣n nhớ rỏ phía bên nào, tôi thấy ḿnh
văng lên rồi rớt lăn trở xuống triền đồi, cây súng colt 45 cầm trtên
tay văng đâu mất, cái địa bàn đeo trên cổ và tấm bản đồ nhờ bỏ trong
áo nên c̣n lại, may mắn tôi chỉ bị chấn động nhẹ, nhưng không hiểu
những người kia có sao không. Tôi đứng dậy chạy ngược xuống bờ suối
th́ gặp một tốp Dù, trong đó có Chuẩn úy Linh đang chạy theo bên bờ
suối về hướng Bắc, thấy tôi họ mừng lắm, cả tôi cũng thế, chưa kịp
hỏi th́ tiếng súng đuổi theo cũng nghe kế bên, lẫn tiếng kêu đầu
hàng, tôi chỉ hướng chạy qua bên kia bờ suối, vừa vượt qua bờ suối
th́ một người chạy sau bị bắn rớt xuống suối, tôi thúc anh em chạy
tiếp, chạy khoảng 50 mét không nghe tiếng rượt theo, chúng tôi dừng
lại để thở. Tôi nói vội với anh em:
- Tuyệt đối không đầu hàng, đi theo tôi, nếu người nào bị bắn mà bị
thương, kể cả tôi, th́ phải bỏ lại, chạy thoát thân, chứ không được
đầu hàng. Mọi người tuân lệnh. Vừa đi tôi vừa xem bản đồ. Vơ Định
cách khoảng 8 cây số, chỉ băng theo hướng đông bắc là đến nhưng thế
nào cũng gặp Việt cộng, tụi nó dứt Charlie rồi tất phải đánh phi
trường Phượng Hoàng, vô đó là lănh đủ (về sau đúng như vậy v́ bọn
chúng đang diều quân đánh căn cứ Vơ Định). Cho nên tôi quyết định đi
thẳng lên hướng bắc khoảng một cây số đánh lạc hướng địch rồi ṿng
lại hướng đông nam ra Diên B́nh, cách đó khoảng mười mấy cây số. Vừa
đói, vừa mệt, 10 người mà chỉ c̣n có 3 cây M16, mổi cây chỉ có một
băng đạn, không biết lúc đụng trận nửa th́ thế nào, tôi lại nhớ đến
Hạnh, người đệ tử nhỏ con nhưng rất tháo vát, lên hạ sĩ thường được
ở lại pháo đội học bắn, nhưng không hiểu khoái tôi cái nổi ǵ đ̣i
theo tôi đi đề lô cho khổ tấm thân, bây giờ không biết ra sao. Đi
gần nửa ngày, đồi cao cả ngàn mét, đói lă người, nửa tháng nay không
đêm nào ngủ được vài tiếng. Bổng người đi đầu giơ tay ra hiệu dừng
lại, khu rừng tre trước mặt có tiếng động, quan sát một hồi thấy
được một toán Dù thất lạc, chúng tôi ra thủ hiệu nhận diện rồi nhập
chung, tới chiều th́ gặp thêm một toán nửa, thêm hai Chuẩn úy và mấy
Hạ sĩ quan. Quân số bây giờ là 26 người với 10 cây M16, có vài người
bị thương nhẹ nơi chân và tay, mọi người đều đói quá, không ai c̣n
miếng gạo sấy nào, chỉ c̣n một lon thịt ba lát, anh em khui ra đưa
cho tôi, tôi cắn một miếng rồi trả lại nói mặn quá, cả tuần nay
chẳng nuốt ǵ được để từ từ rồi ăn. Biết được Chuẩn Úy Linh lớn tuổi
và thâm niên hơn hai Chuẩn úy kia nên tôi kêu Linh riêng ra và nói:
- Lính của anh, anh dể chỉ huy hơn, c̣n tôi th́ dẫn đường ra thôi.
Chuẫn Úy Linh trả lời:
- Trung Úy lớn nhất ở đây, chỉ huy, dẫn đi dâu chúng tôi theo lệnh
Trung úy.
Tôi trở lại nói với anh em:
- Như vậy tôi ra lệnh, nếu gặp địch đông th́ bỏ chạy, nếu địch ít
th́ đánh, ai bị thương kể cả tôi cũng phải bỏ lại, tuyệt đối không
được đầu hàng, tôi có niềm tin tôn giáo, Đức Mẹ sẻ che chở chúng ta.
Mọi người tuân lệnh. Tôi cho tất cả mọi người c̣n vũ khí đi đầu, ba
Chuẩn úy chia ra xen kẻ, c̣n lại không có vũ khí th́ đi sau. Tôi
cũng dặn ḍ kỷ hướng ra Quốc lộ 14, trên đường sẻ gặp những ǵ trên
bản đồ. Nếu có thất lạc v́ đụng trận th́ theo hướng đó mà ra. Không
phải tôi sợ anh em đụng trận, tôi chỉ muốn làm tṛn bổn phận người
anh, lở tôi có bề ǵ th́ biết đường ra cho sớm, trể một ngày là có
thể chết v́ đói.
Tối đó, tôi dặn Chuẩn Úy Linh cắt gác xong chia nhau đi ngủ. Sau một đêm nghỉ thật ngon kể từ nửa tháng nay, tôi đánh thức mọi người dậy thật sớm để leo núi đở mệt hơn. Đến trưa, theo bản đồ chúng tôi đến một làng Thượng đă bỏ hoang, không có ǵ để ăn, chỉ có một cây xoài thật cao toàn trái xanh, đói gần chết mà chơi thứ này vô c̣n tịch sớm hơn nửa. Một người lính bổng thấy một cây điều rừng trong bụi cây trước mặt, có rất ít trái nhỏ màu vàng cở ngón tay, tôi nói để tôi thử coi, bứt một trái không dám đưa hẳn vào trong miệng để nhai, tôi nhây nhây ngoài răng cửa, hơi có vị ngọt chát, tới chừng nuốt vô vừa đến cuống họng th́ nghe thật rát, tôi vội vàng nhổ ra, nguyên cổ họng tôi bị ngứa tàn bạo, và một chốc sau th́ đôi môi bị sưng lên, tránh vơ dưa gặp vỏ dừa, may mà không nuốt vô, nếu không dám toi mạng lắm. Chúng tôi tiếp tục đi một lúc th́ lên một ngọn đồi dài mà đỉnh của nó thật bằng phẳng như ai đă san bằng. Ngọn đồi rất đẹp, cây cối rậm rạp, chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ th́ nghe tiếng trực thăng bay từng đoàn về hướng Nam, có lẽ trực thăng đổ quân, tôi cho anh em rút xuống triền đồi bên này, sợ trực thăng dọn bải hay pháo binh bắn ghép bải lở trúng th́ xui tận mạng. Thật đúng như phép lạ, trực thăng dọn bải phía bên kia đồi, đạn bạn vút qua trên đỉnh mà chúng tôi vừa rút xuống. Hú hồn. Sau đó nghe tiếng trực thăng đáp xuống. Đúng là đổ quân nhưng không biết đơn vị nào đây (sau này tôi biết được Tiểu đoàn 9 Dù đổ quân). Sợ ngộ nhận, tôi quyết định đi tiếp, đến gần chiều th́ dừng quân nghỉ đêm. Đôi môi tôi giờ này sưng vù lên và thâm đen phía ngoài, c̣n trong cổ th́ ngứa vô cùng, chỉ muốn đưa cả nguyên bàn tay vào miệng mà cào cho đă ngứa, không biết tôi có ra kịp quốc lộ không, nếu bỏ mạng lăng xẹt như thế này v́ ăn bậy th́ đau quá. Trong lúc dừng quân, chúng tôi kiếm được đâu đó ít rau tàu bay, luộc lên với nước suối cầm hơi. Đêm đó nh́n lên bản đồ, tôi c̣n cách sông PoKo độ 2 cây số nửa, qua sông này được th́ chiều tối đến xă Diên B́nh. Nhưng con sông rộng và nước chảy thật xiết như thế và người nào cũng đuối sức hết th́ làm sao mà qua đây. Trưa hôm sau, chúng tôi đến sông PoKo đúng y tọa độ. Tôi cho mọi người ngồi nghỉ trong các lùm cây trên bờ. Ngay lúc đó, một chiến trực thăng từ hướng quốc lộ 14 bay thẳng vô núi, chúng tôi chạy ra bờ sông cởi áo giơ tay vẩy vẩy. Từ xa trực thăng thấy được nhưng không dám bay lại gần, nó chỉ bay ṿng ṿng quan sát chúng tôi một hồi rồi xong cũng giơ tay vẫy vẫy rồi bay luôn. Tôi nghỉ trong bụng, chắc là trực thăng đi kiếm chúng tôi, thấy chúng tôi gần ra đến nơi rồi nên bay vào t́m những người c̣n kẹt lại trong sâu hơn, nhưng thế nào cũng báo về Lữ đoàn để báo cho đồn Điạ phương quân biết đừng bắn lầm. Tôi xem lại bản đồ, đây là đầu một cái ấp, thế nào họ cũng có ghe để qua sông, tôi cho người đi dọc bờ sông khoảng một trăm mét th́ thấy có một cái ghe nhỏ và một người đă t́nh nguyện bơi qua bên kia bờ lấy ghe, rồi lần lượt đưa chúng tôi qua sông. Có lẽ bề trên đă an bài, một cái ấp bỏ hoang như thế này lại có một chiếc ghe của ai đó bỏ lại để đưa chúng tôi qua sông, như một phép lạ. Mọi người đều kiệt sức nên tôi quyết định cho anh em đi ngang qua rẩy dân và cố t́nh nói chuyện lớn tiếng, để nếu có lính nghỉa quân ở đây th́ nhận ra giọng miền Nam chứ không phải giọng Bắc con cháu giặc hồ mà không bắn lầm, đồng thời cũng vớt vát chút đỉnh củ khoai trái bắp ǵ đó trên đường đi. Đây là một quyết định có lẽ lạ đời nhất và phản chiến thuật nhất của một sĩ quan. Cứ như vậy mà đi, có lúc những người lính c̣n ca lên mấy câu vọng cổ hoặc mấy bài hát của miền Nam nửa, chẳng có ǵ ăn trên đường qua rẩy v́ rẩy cũng bị bỏ hoang lâu rồi, th́ lót ḷng bằng tiếng ca ngọt ngào hương lúa miền Nam quê hương vậy.
Chúng tôi từ địa ngục trở về đâu có c̣n ngán cái địa ngục nào nửa đâu, ba cái thằng du kích xă dám xuất hiện ngăn chúng tôi sao? Tôi lấy cái lư của kẻ lỳ cho anh em tự do ca hát nói chuyện cho đến khi gần đến Xă Diên B́nh th́ dừng lại. Sợ ṃ vào ban đêm bị vướng ḿn tự động hay lựu đạn gài nên tôi cho dàn quân lại pḥng thủ ngủ đến sáng mới vô, và dặn ḍ hết sức cẩn thận, không chết dưới chục ngàn quả đạn pháo mà chết v́ đạp ḿn địa phương quân th́ lảng xẹt. Tôi vừa đi một ṿng kiểm soát lại mọi người th́ Chuẩn Úy Linh tiến lại nói có hai thằng ṃ vào liên lạc được bên trong rồi, họ mở cổng cho ḿnh vào. Tôi nói tào thiệt, sau đó tôi đi vào đồn chào vị Đại úy Tiểu đoàn Trưởng Địa phương quân và tŕnh bày lư do, viên Đại úy nói hồi chiều tôi đă được biết trước anh em sẻ về đúng nơi đây đêm nay, nên đă chuẩn bị các thứ để giúp anh em Nhảy dù. Tôi mượn máy liên lạc với Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù và nhờ chuyển qua báo cho Tiểu đoàn 11 biết chúng tôi đă ra đến nơi, xong nói tôi có một số người bị thương, xin Đại úy săn sóc dùm, viên Đại úy cho người dẩn anh em bị thương lại một tu viện gần đó, tôi đi theo. Những vết thương được các seour rửa ráy hết sức cẫn thận, ḍi con nào con nấy to bằng đầu đủa ḅ ra từ trong tủy xương tay mà anh em không căm thấy đau đớn chi cả, có những nổi đau c̣n lớn hơn trong ḷng mọi người và không ai dám nói ra vào lúc này v́ nói ra chúng tôi sẻ khóc. Giọt lệ anh hùng phải rơi đúng lúc và đúng chổ. Các soeur cũng cho tôi vài viên thuốc ǵ đó uống cho khỏi làm độc, tôi cám ơn rồi về gọi Chuẩn Úy Linh đến để giao lại nhiệm vụ chỉ huy anh em. Viên Đại Úy hỏi tôi muốn ăn ǵ, tôi chỉ xin một tô cháo, và một chổ nằm.
Trong lúc chờ đợi, tôi bước ra khỏi hầm, bước lên cầu Diên B́nh nh́n về dẩy Trường Sơn âm u phía Tây, ánh hỏa châu lung linh trong đêm tối như canh giấc ngh́n thu cho đồng đội tôi đời đời an nghỉ, hay c̣n tiếp tục đâu đó cuộc chơi tốn nhiều xương máu v́ hai chử tự do, những người đi không về đêm nay, có Hạnh, có Sơn, có Khánh h́nh như đang bay theo những đốm lửa nổ bộp trên không, rồi tan vở từ từ thành h́nh một cánh dù trên đồi máu, tôi thấy ḿnh nắm lấy hai dây thượng thăng, chạy băng xuống đồi, cánh dù từ từ lộng gió lên cao, bên tai tôi c̣n nghe tiếng kêu khát nước của Cho, tiếng đạn hú rợn người trên non, và tôi đi vào cơn mơ lúc nào không biết…
Tiểu đoàn 11 Dù, Song Kiếm Trấn Ải Charlie đă để
lại nơi đây người anh cả Nguyễn Đ́nh Bảo cùng ba trăm đồng đội , và
Tiểu đoàn về được tới Vơ Định trước sau chỉ có mấy chục người, chưa
được một Đại đội. Sau Hiệp định Paris, Đại Úy Hùng mập, Đại đội
trưởng 113 được trao trả. Xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh dọc đường
dẫn ra Bắc, nhiều lần bọn cán binh Việt cộng đ̣i giết để trả thù cho
đồng bọn nhưng cấp chỉ huy của chúng không cho v́ nhu cầu trao trả,
anh hiện ở tại Houston. Người đệ tử tôi, Hạ sĩ Hạnh và nhiều anh em
khác th́ nằm lại tại một trại tù binh nào đó tại vùng Thượng du Bắc
Việt v́ bị sốt rét và đói khát. Trung úy Lạc giải ngủ sau trận này,
không chết, nhưng vết thương trên đầu khi thở ra hít vào th́ da đầu
cũng phập phồng theo, trông rất ghê, nên lúc nào cũng phải đội nón
bảo hộ. Đại Úy Hùng móm và Chuẩn Úy Trưng đề lô bị bắt sống nhưng đă
trốn thoát được sau đó, và chỉ vài tháng sau th́ Đại Úy Hùng móm đă
nằm xuống trên đường tái chiếm Cổ Thành Quăng Trị, chỉ cách ngôi nhà
củ của ḿnh có 100 mét. Sau trận Charlie, tôi được Thiếu Tá Mễ chạy
cho một cái Nhành dương liễu, đợi măi không thấy, hỏi lại th́ được
biết Bộ Tổng Tham Mưu cúp hết huy chương của Quân Khu 2 sau trận
này.
Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đă đánh hai trận lẫy lừng nhất trong quân sử
Việt Nam Cộng Ḥa, Trận Charlie lănh cở 10,000 quă đạn đại bác đủ
loại trên một căn cứ nhỏ xíu, chưa có trận nào mà một đơn vị của
quân đội ta bị pháo khủng khiếp đến như thế. Tiểu đoàn 11 Dù bị mất
hơn 4 đại đội, nhưng đă tiêu diệt được ít nhất cũng một Trung đoàn
cộng quân của Sư đoàn 320 quả đấm thép, một đổi bốn. Sau chỉ một
tháng bổ xung quân số rồi ra tái chiếm Quăng Trị, chỉ trong một đêm
đến sáng của một ngày tháng 6 năm 1972, Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù và đề
lô pháo binh đă bắn cháy 26 xe tăng địch gần bờ sông Mỹ Chánh, có lẽ
quân sử thế giới cũng chưa có một đơn vị nào lập được một kỳ công
như thế trong không đầy 12 tiếng đồng hồ, và cũng chính nhờ Tiểu
đoàn 11 đă dùng hỏa tiển TOW bắn cháy một xe tăng T54 của địch định
khóa đuôi Đại đội 1 Trinh Sát Dù của Thiếu Tá Dũng, Đại đội trưởng,
mà tôi đă thoát chết được khi đi đề lô cho Đại đội này ngay sát bờ
Nam sông Mỹ Chánh, Hải Lăng, Quăng Trị cuối tháng 6 năm 1972.
Nguyễn Văn Lập
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại